TIN TRONG NƯỚC
Samsung cam kết sẽ luôn đồng hành với Việt Nam hợp tác toàn diện, phát triển kinh tế.
Chiều ngày 21 tháng 6, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp ông Park Hark Kyu, Tổng Giám đốc phụ trách tài chính của Tập đoàn Samsung, đang thăm, làm việc tại Việt Nam.
Trong những năm qua, Samsung được biết đến là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, với tổng vốn đầu tư đăng ký 22,6 tỷ USD. Năm 2023, doanh thu và xuất khẩu đạt tương ứng 65 tỷ USD và 55,7 tỷ USD; tính đến tháng 3-2024, doanh thu và xuất khẩu đạt tương ứng 17,2 tỷ USD và 15 tỷ USD.
Tại buổi gặp mặt, Thủ tướng đánh giá cao nỗ lực và quyết tâm của Samsung trong triển khai kinh doanh tại Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất nhập khẩu, phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều năm qua; hoan nghênh và ủng hộ kế hoạch triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của Samsung.
Trong thời gian tới, Thủ tướng bày tỏ mong muốn Samsung tiếp tục hỗ trợ Việt Nam nâng cao hơn nữa năng lực doanh nghiệp trong nước để có thể tham gia có hiệu quả hơn chuỗi cung ứng, đồng thời trở thành đối tác trong hệ sinh thái của Samsung; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; tiếp tục coi Việt Nam là cứ điểm sản xuất chiến lược, nghiên cứu-phát triển và sản xuất các sản phẩm chủ lực ra thị trường quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam luôn đề cao sự hợp tác chặt chẽ, toàn diện, hiệu quả với các quốc gia, nền kinh tế và các doanh nghiệp, đối tác hàng đầu thế giới trong các ngành mới nổi như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, hydrogen… trong đó có Samsung; mong muốn nhận được các góp ý, đề xuất của các doanh nghiệp, nhà đầu tư để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách phù hợp các cam kết quốc tế và điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
Trong lần đón tiếp này, Tổng Giám đốc Park Hark Kyu cũng đưa ra báo cáo cập nhật tình hình và dự kiến, kế hoạch sản xuất, kinh doanh thời gian tới của Samsung; đồng thời tìm hiểu, trao đổi với lãnh đạo các bộ, ngành tham dự buổi tiếp về môi trường, chính sách đầu tư của Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực mới nổi và cơ chế mua bán điện trực tiếp; mong muốn và tin tưởng Việt Nam sẽ liên tục cải thiện môi trường kinh doanh.
Về việc hợp tác sắp tới, Samsung cam kết sẽ luôn đồng hành với Việt Nam, nỗ lực hết sức nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Doanh nghiệp Việt Nam logistics trước áp lực phải “xanh” để tạo giá trị bền vững
Các chuyên gia thương mại nhận định: logistics xanh hướng tới tạo ra giá trị bền vững cho doanh nghiệp, đồng thời cân bằng hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
Theo phân tích của các chuyên gia thương mại, logistics xanh là mô hình được xây dựng với mục tiêu tạo ra giá trị bền vững cho doanh nghiệp, cân bằng hiệu quả kinh tế trong khi đảm bảo vấn đề về bảo vệ môi trường. Logistics xanh trong chuỗi cung ứng tích hợp các yếu tố thân thiện với môi trường vào quá trình quản lý và sử dụng thiết bị nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, tiếng ồn và rác thải.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện vận tải xanh bằng cách kết hợp các đơn hàng để cùng vận chuyển trong một chuyến. Lựa chọn các tuyến đường hợp lý để đảm bảo xe tải đạt được hiệu quả tối ưu khi đầy hàng ở cả hai chiều vận chuyển. Như vậy sẽ giảm số lượng xe tải trống hoặc chở hàng không đủ tải, tiết kiệm nhiên liệu và chi phí vận chuyển.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhận định rằng, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu liên tục của Việt Nam, đặc biệt là trong các ngành như gạo, cà phê, dệt may, da giày, điện thoại và linh kiện, ngành logistics có thể tận dụng nhiều cơ hội và phát triển mạnh mẽ.
Nhu cầu dịch vụ vận chuyển quốc tế, vận tải nội địa và phân phối gia tăng đã thúc đẩy sự phát triển của ngành logistics. Việt Nam với kỳ vọng tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, tuy nhiên mức độ hiệu quả của thị trường vẫn chưa cao. Đây cũng tạo ra tiềm năng lớn cho việc phát triển dịch vụ logistics theo hướng tối ưu hóa chi phí. Tuy nhiên, dựa trên cơ cấu dịch vụ vận tải của Việt Nam vẫn chưa cân đối và bền vững, với tỷ trọng vận tải đường bộ còn chiếm ưu thế hơn so với các hình thức vận tải khác như đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển và đường hàng không.
Theo số liệu được công bố, lượng phát thải khí nhà kính từ vận tải đường bộ cao gấp 21,95 lần so với vận tải đường hàng không. Gấp 19,94 lần so với vận tải đường biển và 245,49 lần so với vận tải đường sắt. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), mỗi năm, hoạt động vận tải ở Việt Nam thải ra hơn 50 triệu tấn CO2. Trong đó vận tải đường bộ chiếm 85% tổng lượng phát thải. Lượng phát thải này dự kiến sẽ tăng trung bình 6-7% mỗi năm. Hiện tại, lượng khí thải nhà kính của Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia phát triển và đang phát triển khác. Dự báo đến năm 2024, ngành vận tải sẽ phát thải 60 triệu tấn CO2. Và con số này có thể lên tới 90 triệu tấn CO2 vào năm 2030.
Ông Trần Thanh Hải cũng nhấn mạnh rằng logistics xanh không chỉ là xu hướng mà còn là yêu cầu bắt buộc trong tương lai. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rào cản về nhận thức cũng như động lực để thực hiện thay đổi này.
Ngược lại, có những doanh nghiệp tuy nhận thức tốt về tầm quan trọng của logistics xanh nhưng do quy mô nhỏ và tài chính hạn hẹp nên chưa thể đầu tư hợp lý. Hơn nữa, dù khách hàng có yêu cầu cao về vấn đề thân thiện môi trường, họ lại không sẵn sàng chi tiêu nhiều cho dịch vụ logistics bền vững.
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, tại nhiều nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam, logistics xanh là một khái niệm tương đối mới và chưa được hiểu đầy đủ. Việc tìm hiểu rõ bản chất và ứng dụng logistics xanh sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện hình ảnh thương hiệu và hướng tới phát triển bền vững toàn diện.
Ngoài ra, hệ thống giao thông đường thủy nội địa và ven biển cũng được xem là yếu tố tiềm năng để đầu tư, khai thác. Như vậy sẽ giúp tăng khối lượng hàng hóa vận chuyển và giảm lượng khí thải từ các phương tiện vận chuyển. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số và triển khai mạnh logistics xanh, logistics thông minh sẽ nâng cao hiệu quả trong xuất nhập khẩu hàng hóa.
Để nâng cao hiệu quả cạnh tranh, các doanh nghiệp cần tối ưu hóa tuyến đường và quản lý kho hàng bằng cách sử dụng phần mềm quản lý vận tải (TMS) và các giải pháp phần mềm khác để phân tích và tối ưu hóa tuyến đường, giúp giảm thiểu số km di chuyển không cần thiết và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.
Ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh, các tiêu chuẩn, quy chuẩn và định mức liên quan cần được từng bước hoàn thiện để giảm phát thải từ giao thông vận tải và phát triển logistics xanh. Trong đó, phương tiện vận tải và nhà kho dùng năng lượng sạch, thân thiện với môi trường là các phương diện cần được chú trọng, đầu tư.
Đồng thời, hoàn thiện và triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý chất lượng nhiên liệu, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn khí thải và phát triển hạ tầng giao thông vận tải theo hướng tăng cường khả năng kết nối và đa phương thức.
Doanh nghiệp cũng cần tối ưu hóa hoạt động vận tải và kho bãi, giảm thiểu lưu thông không cần thiết và thúc đẩy chính quyền số trong giao thông vận tải, xây dựng cơ sở dữ liệu logistics. Ngoài ra, việc phát triển hệ thống thu phí điện tử không dừng và lắp đặt hệ thống điều hành giao thông thông minh là cần thiết để ngành logistics phát triển bền vững.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khẩn trương hoàn thiện Đề án xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam
Sáng 11/7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì họp Thường trực Chính phủ với các bộ, ngành về Đề án chủ trương đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam.
Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ: Trần Hồng Hà, Trần Lưu Quang, Lê Thành Long; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan.
Tại cuộc họp, Thường trực Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ngành đã nghe và thảo luận về quá trình nghiên cứu, xây dựng đề án, báo cáo tổng thể về dự án, cũng như đề xuất lộ trình, bước đi, công nghệ, tài chính… và các vấn đề liên quan xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Kết luận cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao các báo cáo và ý kiến trách nhiệm, đầy đủ, rõ vấn đề, có tính thuyết phục cao của các bộ, ngành.
Theo Thủ tướng Chính phủ, việc xây dựng Đề án đã bám sát cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý gồm: Kết luận số 49-KL/TW, ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 103/2023/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024.
Đồng thời việc xây dựng Đề án căn cứ yêu cầu thực tiễn, khi nhu cầu vận tải rất lớn, theo trục Bắc – Nam theo chiều dài của nước. Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn phát triển logistics, song chi phí logistics vẫn đang cao hơn trung bình thế giới do hệ thống giao thông chưa phát triển ngang tầm. Việc phát triển giao thông, trong đó có tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam sẽ làm giảm chi phí logistics, giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh hàng hóa.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến của các bộ, cơ quan dự họp và các chuyên gia, nhà khoa học, kinh nghiệm quốc tế phù hợp; tiếp tục phối hợp chặt chẽ, khẩn trương hơn nữa hoàn thiện Đề án, các báo cáo, tờ trình và tài liệu liên quan để trình cấp có thẩm quyền, theo hướng đột phá, đổi mới, tầm nhìn chiến lược, bảo đảm yếu tố hiện đại, đồng bộ, hiệu quả bền vững theo đúng chủ trương của Bộ Chính trị tại Kết luận số 49-KL/TW.
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam có chiều dài khoảng 1.541km, đi qua 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; triển khai trong 10 năm từ năm 2025 đến năm 2035; với hướng tuyến thuận lợi nhất, ngắn nhất, hiệu quả nhất có thể, với nguyên tắc “qua sông thì bắc cầu, qua núi thì khoét núi, qua đồng ruộng thì đổ đất đổ cát”; vận tốc khai thác 350km/h; phục vụ vận tải con người là chính, có kết hợp vận tải hàng hóa và kết hợp kinh tế với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Theo tính toán, dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam có tổng mức đầu tư khoảng 67 tỷ USD. Đây là số vốn lớn, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, đơn vị liên quan tiếp tục nghiên cứu, phân tích kỹ hơn, có tham chiếu với các nước có điều kiện, công nghệ, quy mô tương ứng. Đặc biệt, phải có phương thức huy động vốn đa dạng, gồm vốn Trung ương, địa phương, vốn vay, phát hành trái phiếu và vốn của doanh nghiệp. Để huy động các nguồn vốn phải phân tích rõ và có cơ chế, chính sách phù hợp, tính đến khả năng thu hồi vốn, cũng như hiệu quả tổng hợp của dự án.
Song song với xây dựng Đề án chủ trương đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam trình các cấp có thẩm quyền trong năm 2024, xây dựng các đề án nâng cấp các tuyến đường sắt hiện hữu, trước mắt ưu tiên đầu tư tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
Bộ trưởng Bộ Công Thương gửi 5 đề xuất đến Chủ tịch FIATA
Từ đầu năm 2024 đến nay tình trạng tăng giá cước vận tải biển, ùn tắc tại một số cảng châu Á và thiếu container rỗng đã có tác động, ảnh hưởng đến hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trước thực trạng này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có thư gửi Chủ tịch Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội Giao nhận (FIATA) trao đổi, thúc đẩy hợp tác và đề xuất một số nội dung liên quan đến vấn đề này.
Trong thư, thay mặt Bộ Công Thương nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên gửi đến ông Turgut Erkeskin – Chủ tịch FIATA lời chúc mừng nồng nhiệt nhân dịp ông kết thúc thành công chuyến công tác tại Việt Nam với tư cách là Chủ tịch FIATA.
Trong những năm qua, FIATA đã thể hiện vai trò là một tổ chức quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực logistics, tập hợp 114 hiệp hội logistics quốc gia, có phạm vi hoạt động tại 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, với khoảng 40.000 doanh nghiệp trên thế giới có liên quan. Việt Nam đánh giá cao vai trò của FIATA, thể hiện qua việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp các Chủ tịch FIATA đến thăm Việt Nam trong 2 năm liên tiếp 2023-2024. Việt Nam cũng vinh dự được FIATA lựa chọn làm địa điểm đăng cai Đại hội FIATA vào tháng 10/2025.
Tại buổi tiếp kiến Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ngày 9 tháng 7 năm 2024 vừa qua, ông Turgut Erkeskin đã cam kết sẽ ủng hộ mạnh mẽ các cơ quan nhà nước Việt Nam, trước hết là Bộ Công Thương, nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics và đưa Việt Nam thành một trung tâm dịch vụ logistics của khu vực và thế giới.
Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị ông Turgut Erkeskin và FIATA chia sẻ thông tin, tư vấn, hỗ trợ về chuyển đổi số và chuyển đổi xanh; giải pháp phát triển logistics nông nghiệp, công nghiệp; phát triển các hành lang thương mại – logistics; phát triển hạ tầng logistics; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành.
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế hướng về xuất khẩu. 6 tháng đầu năm 2024, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đạt 369,62 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 190,73 tỷ USD, tăng 14,9%; trị giá nhập khẩu đạt 178,88 tỷ USD, tăng 17,3%. Cán cân thương mại ước tính xuất siêu 11,85 tỷ USD.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2024 đến nay tình trạng tăng giá cước vận tải biển, ùn tắc tại một số cảng châu Á và thiếu container rỗng đã có tác động nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Với vai trò của FIATA là cầu nối quan trọng góp phần thúc đẩy hợp tác về logistics, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa các quốc gia, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên mong muốn ông Turgut Erkeskin và FIATA có thể hỗ trợ, có những biện pháp thiết thực để giúp doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các khó khăn do tình trạng tăng giá cước vận tải biển, ùn tắc cảng và thiếu container rỗng nêu trên. Trong đó, có thể bao gồm:
Thứ nhất, đề xuất giải pháp của FIATA cho vấn đề có tính toàn cầu này.
Thứ hai, chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp mà các quốc gia và các hiệp hội thành viên của FIATA đã và đang áp dụng, đặc biệt đối với việc xử lý các khoản phí ngoài cước thu tại cảng.
Thứ ba, trong phạm vi ảnh hưởng của mình với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, logistics và quản lý chuỗi cung ứng, nhấn mạnh vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu để có ưu tiên phù hợp về phương tiện và thiết bị vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu cho thị trường Việt Nam.
Thứ tư, hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong chiến lược định vị Việt Nam là trung tâm sản xuất hàng hóa, địa điểm trung chuyển quốc tế mới của châu Á trong cộng đồng các doanh nghiệp logistics toàn cầu.
Thứ năm, ủy quyền cho các tổ chức Việt Nam tham gia đào tạo và cấp chứng chỉ FIATA để góp phần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế cao.
Về phía Bộ Công Thương, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay: “Chúng tôi cũng sẽ chỉ đạo các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, các hiệp hội và doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics kết nối, hợp tác chặt chẽ, có phương án ứng phó kịp thời để giảm thiểu nguy cơ, rủi ro, tổn thất từ các diễn biến phức tạp trong tương lai.
Chúng tôi tin tưởng sự hợp tác giữa Bộ Công Thương và FIATA sẽ tiếp tục phát triển, Việt Nam có đóng góp xứng đáng vào việc nâng cao vai trò, vị thế của FIATA và FIATA hỗ trợ hiệu quả giúp Việt Nam hội nhập với thị trường logistics thế giới”.
Thủ tướng Việt Nam đề nghị FIATA hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực logistics
Chiều 9/7, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp Chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế (FIATA) Turgut Erkeskin đang thăm, làm việc tại Việt Nam.
Hoan nghênh Chủ tịch FIATA thăm Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao FIATA đã hỗ trợ Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam đăng cai tổ chức Đại hội Thế giới FIATA vào năm 2025.
Thủ tướng cho biết tốc độ tăng trưởng logistics Việt Nam bình quân hằng năm đạt từ 14-16%, đóng góp quan trọng trong việc đưa tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2023 lên gần 700 tỷ USD.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 370 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2023, xuất siêu 11,63 tỷ USD. Là nền kinh tế mở, logistics có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam theo xu thế của thế giới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng FIATA luôn là cầu nối quan trọng góp phần thúc đẩy hợp tác giữa Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam với các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp dịch vụ logistics thế giới. Thủ tướng ghi nhận những đóng góp của FIATA trong phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam.
Theo Thủ tướng, Chính phủ Việt Nam đang triển khai xây dựng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025-2035, tầm nhìn đến 2045. Thủ tướng đề nghị FIATA chia sẻ thêm thông tin, tư vấn, hỗ trợ về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chú trọng các giải pháp phát triển logistics nông, công nghiệp, phát triển đội tàu biển, các hành lang kinh tế thương mại-vận tải và hỗ trợ kỹ thuật để Việt Nam sớm hoàn thiện Chiến lược quốc gia về phát triển dịch vụ logistics trong năm 2024.
Thời gian tới, Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét thành lập Ủy ban Chỉ đạo Quốc gia về dịch vụ logistics với bộ máy chuyên môn đủ mạnh, có năng lực, có thẩm quyền để giúp Chính phủ chỉ đạo phát triển, đẩy mạnh lĩnh vực quan trọng này.
Thủ tướng đề nghị FIATA quan tâm hỗ trợ công tác phát triển nhân lực cho ngành logistics Việt Nam; mở rộng các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam.
Cho biết Việt Nam đang tập trung phát triển hạ tầng chiến lược, trong đó có hạ tầng logistics, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, Thủ tướng khẳng định Chính phủ Việt Nam sẽ đồng hành cùng các đối tác trong và ngoài nước, hỗ trợ, tạo mọi thuận lợi cho các hoạt động hợp tác kinh tế-đầu tư-thương mại-dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng đến hợp tác phát triển dịch vụ logistics đem lại lợi ích nhiều hơn cho các bên theo tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ.”
Cảm ơn Thủ tướng Chính phủ đã dành thời gian tiếp đoàn, Chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế Turgut Erkeskin cho biết trong tình hình hiện nay, logistics có vai trò quan trọng, song đứng trước thách thức lớn.
Chủ tịch FIATA Turgut Erkeskin đề nghị và tin tưởng Chính phủ, các bộ, ngành Việt Nam ủng hộ, tham gia tích cực để tổ chức thành công Đại hội Thế giới FIATA vào năm 2025 tại thủ đô Hà Nội.
Chủ tịch FIATA đánh giá cao Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025-2035, tầm nhìn đến 2045, nhất là trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và cam kết của Việt Nam giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cho rằng Việt Nam có tiềm năng lớn trở thành trung tâm logistics của khu vực và thế giới, Chủ tịch FIATA đề xuất Việt Nam cần huy động mọi nguồn lực xã hội vào phát triển ngành kinh tế này
TIN KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
Các hãng tàu trong cuộc đua giành thuê tàu chạy tuyến Đông-Tây
Các hãng tàu đang “tranh giành sức chở” để có thể chở thêm nhiều hàng hóa hơn trên các tuyến vận tải Đông-Tây. Tuy nhiên, điều đó đã tạo ra lợi thế cho các chủ tàu khi chi phí thuê tàu gần đây đã tăng nhanh chóng.
Peter Sand, Nhà phân tích trưởng của Xeneta, nói với The Loadstar rằng đứng trước cơ hội đó, các chủ tàu đang tận dụng khai thác từ thị trường bận rộn hơn bằng cách tính giá thuê cao hơn và yêu cầu thời hạn thuê dài hơn.
Theo ông Sand, đối mặt với thực trạng đang diễn ra, Maersk gần đây đã thuê một tàu 4.600 TEU trong hai năm với giá 40.000 USD/ngày trong khi CMA-CGM thuê một tàu 7,100 TEU trong khoảng ba tháng với giá 80.000 USD/ngày.
Đánh giá về tình hình chung hiện nay, Giám đốc điều hành của Vespucci Maritime, chuyên gia Lars Jensen cho rằng những gì đang diễn ra là “một ví dụ khác về việc ngành quay lại với những tín hiệu từ thời kỳ khủng hoảng trong đại dịch”. Điều này được xem là một dấu hiệu cho thấy các hãng tàu tin rằng giai đoạn khó khăn hiện tại sẽ kéo dài ít nhất vài tháng nữa.
Ông Jensen so sánh về giá thuê trung bình chuẩn cho năm 2024, tính đến nay, mức giá từ MB Shipbrokers là $32.000 cho phân khúc 5.500 – 7.000 TEU.
Cũng theo phân tích của ông Sand, tất cả các hãng tàu đều tranh giành cùng những con tàu, tại cùng một thời điểm, kể cả là mua hay thuê. Và đây là thời điểm vàng để chủ tàu kiếm được lợi nhuận khủng, trong khi người gửi hàng đang phải chi trả nhiều hơn nhưng nhận đổi lại các dịch vụ ngày càng tệ đi.
Vậy các hãng tàu đang thay đổi, thích nghi như thế nào khi tình hình giá cước vận tải chưa có dấu hiệu hạ nhiệt?
Hồi trung tuần tháng 6 vừa qua, hãng tàu CMA-CGM của Pháp đã công bố tuyến dịch vụ French Peak khi khai thác thêm 7 chuyến với các tàu có sức chở 7.000 TEU kết nối Châu Á với Bắc Âu và Địa Trung Hải.
Chuyến đầu tiên khởi hành vào ngày 30/6 với tàu APL Oregon có sức chở 6.350 TEU, với hải trình Yantian (Trung Quốc) – Cái Mép (Việt Nam) – Singapore (Singapore) – Le Havre (Pháp) – Antwerp (Bỉ). Sau đó, mỗi hai tuần sẽ có một chuyến đi từ cảng ở Trung Quốc đến các cảng đích ở Châu Âu. Các chuyến bổ sung đưa hàng đến Địa Trung Hải thì có hải trình Shekou – Cái Mép – Singapore – Fos (Pháp) – Malta.
Trong bản tin hàng tuần của mình, hãng tư vấn Alphaliner nhấn mạnh: “Đây không phải là lần đầu hãng tàu CMA-CGM tăng cường các chuyến tàu từ Châu Á đến các cảng của Pháp. Trong quý 4/2021, thời điểm thiếu hụt chỗ trầm trọng trong giai đoạn đại dịch Covid, hãng tàu Pháp đã triển khai ba tuyến bổ sung từ các cảng Trung Quốc và Singapore đến Fos, Le Havre và Dunkirk.”
Trong khi đó, tuyến dịch vụ Brittania của hãng tàu MSC khai thác tàu MSC Denisse X có sức chở 9.640 TEU khởi hành vào ngày 1/7 sẽ kết nối Trung Quốc, Việt Nam với Vương quốc Anh, Hà Lan và Đức, trong đó điểm dừng đầu tiên tại Châu Âu là thành phố cảng Liverpool.
Hôm 14/6, MSC cũng đã công bố đang khôi phục tuyến dịch vụ xuyên Thái Bình Dương là Mustang từ ngày 8/7, với tàu MSC Lella có sức chở 16.000 TEU được đóng vào năm 2023, theo hải trình Yantian – Ningbo – Shanghai – Long Beach
Hãng tàu có trụ sở tại Geneva cho biết: “Nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường tăng nhanh trên tuyến xuyên Thái Bình Dương, tuyến Mustang được triển khai sẽ giúp tăng cường thêm chuyến và thời gian vận chuyển nhanh hơn giữa Đông Á và bờ Tây Hoa Kỳ.”
Tại triển lãm Multimodal ở Birmingham (Anh) vừa qua, Giám đốc dịch vụ vận tải biển của Maersk tại Anh và Ireland, ông Joe Knight cho biết: “Những con tàu hiện đang được khai thác ở mức tối đa, đây là lý do để những tuyến dịch vụ mới ra đời. Điều này thực sự tốt cho ngành vận tải biển nhằm giảm bớt áp lực.
“Những con tàu container đang được đưa vào là nhỏ hơn so với các tàu tiêu chuẩn đang chạy từ khu vực Viễn Đông. Vì vậy, mọi người có thể kỳ vọng các tàu có sức chở 20.000 TEU hay 14.000 TEU được triển khai, nhưng thực tế thì chúng ta thậm chí có thể thấy các tàu chỉ ở mức 3.000 TEU” ông nói thêm.
Trong khi đó, Sealead, hãng tàu có trụ sở tại Singapore, đã công bố tuyến dịch vụ mới kết nối trực tiếp Trung Quốc, Hàn Quốc đến California. Chuyến đầu tiên dự khởi hành từ ngày 16/6 theo hải trình Nansha – Ningbo – Shanghai – Qingdao – Busan – Long Beach.
Hãng tư vấn Alphaliner cho biết: “Lịch trình này gần giống với tuyến xuyên Thái Bình Dương trước đây của SeaLead ra mắt vào tháng 8/2021 trong thời kỳ Covid, giai đoạn mà cước vận tải biển đang tăng mạnh và nhu cầu hàng hóa rất cao.”
Tại sự kiện TOC Europe ở Rotterdam hồi tháng 6/2024, ông Jensen cũng cho biết việc tái khởi động các chuyến bổ sung là một phần của xu hướng các hãng tàu nhỏ hơn quay lại khai thác các tuyến biển xa khi mức giá cước đang tăng cao.
Indonesia thử nghiệm hệ thống logistics kết hợp xe tải – tàu hỏa (truck rail logistics)
Bộ Giao thông Vận tải Indonesia đặt mục tiêu tiến hành thử nghiệm một chuyến tàu chở hàng đến Cảng Garongkong ở Barru Regency, Nam Sulawesi, thông qua tuyến Makassar-Parepare trong năm nay, với điểm nhấn là đưa cả xe tải chứa hàng lên tàu.
Kế hoạch táo bạo này sẽ cho phép đưa xe tải lên tàu hỏa để kết nối cảng và các khu công nghiệp ở Nam Sulawesi nhanh chóng, thuận tiện.
Theo Trưởng bộ phận Đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải Malaysia, Risal Wasal cho biết, tàu chở hàng từ và đến Cảng Garongkong sẽ đưa hàng hóa giữa nhà máy và cảng nhanh chóng, hiệu quả.
Việc khởi chạy thử nghiệm có thể là vào tháng 10/2024. Hệ thống đường cao tốc lăn sẽ dài 108 km từ Ga Rammang – Rammang đến Garongkong. Ga Rammang – Rammang được bao quanh bởi các cảng cạn, tạo điều kiện cho hàng hóa được vận chuyển trực tiếp từ đó đến Ga Garongkong. Việc đưa hàng hóa từ xe tải chở hàng lên tàu hỏa sẽ mang lại hiệu quả lớn hơn về mặt kinh tế và xã hội.
Dự án sẽ trực tiếp vận chuyển xe tải về cảng, cho xe lên tàu. Dịch vụ này đặc biệt hữu ích cho việc vận chuyển hàng hóa như xi măng hoặc các nguyên liệu thô công nghiệp khác đến cảng. Giai đoạn đầu sẽ có 20 toa sàn phẳng chở 40 xe tải trên mỗi chuyến.
Các tác động tích cực của mô hình vận tải này sẽ bao gồm giảm tắc nghẽn giao thông và mức độ xuống cấp của đường bộ, đồng thời giảm áp lực đối với các tài xế. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn, các xe tải được đưa lên tàu sẽ được giám sát chặt chẽ, với các quy định nghiêm ngặt về xe tải quá khổ và quá tải (ODOL).
Giảm tắc nghẽn giao thông có cũng giúp giảm ô nhiễm môi trường và giúp lĩnh vực logistics tại Indonesia bền vững hơn.
Một số ngành công nghiệp ở Sulawesi, chẳng hạn như các nhà máy xi măng, có thể sử dụng hệ thống này. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải Indonesia cũng đang hướng đến mô hình này cho vận chuyển sản phẩm nông nghiệp. Bộ Giao thông vận tải đã đặt tên nhà điều hành vận tải hậu cần là Kereta Api Indonesia Timur. Tuy nhiên, chính phủ vẫn chưa thông báo giá trị đầu tư hoặc công ty nào sẽ tham gia vào liên danh.
Theo nhận định của người đứng đầu Cơ quan quản lý cảng biển Makassar (KSOP) Sahatua P Simatupang, trong tương lai hoạt động của Cảng Makassar sẽ hiệu quả hơn với việc vận hành tàu chở hàng Makassar-Parepare. Hơn nữa, Ga Mandai được kết nối với Cảng Makassar hoặc Cảng Mới Makassare và có thêm hai ga nữa nối Maros và Makassar qua tuyến Makassar-Parepare. Do đó, các chuyên gia kỳ vọng hoạt động logistics sẽ sôi động hơn khi mô hình vận chuyển kết hợp mới này được hoàn thiện.
Trong khi đó, Chính quyền tỉnh Nam Sulawesi đang tập trung mở tuyến vận chuyển mới qua Cảng Garongkong ở Barru Regency đến Kalimantan, củng cố vị thế của Thành phố Nusantara (IKN). Hiện nay, đề án mở tuyến mới đã được trình lên Tổng cục Vận tải biển (Bộ GTVT Malaysia).
Tuyến Makassar-Parepare là tuyến đường sắt đầu tiên ở Sulawesi, dài 145 km. Tuyến Makassar-Parepare là giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển tuyến đường sắt xuyên Sulawesi.
Chính phủ Indonesia, thông qua Tổng cục Đường sắt của Bộ Giao thông Vận tải, đã khởi động tuyến đường sắt Makassar-Parepare, kéo dài từ ga Mandai, ga Maros, ga Rammang Rammang, ga Pangkajene, ga Labakkang, ga Ma’rang, ga Mandalle, ga Tanete Rilau, ga Barru, đến ga Garongkong. Tuyến đường sắt ban đầu là tuyến đường đơn, nhưng quỹ đất đã được chuẩn bị sẵn có thể đáp ứng được đường sắt đôi. Tuyến đường dự kiến bao gồm 17 ga sẽ đóng vai trò là cửa ngõ đường sắt quan trọng. Hiện nay, công suất sử dụng cho các chuyến tàu chở hành khách dao động từ 50% đến 70% vào cuối tuần.
Toàn tuyến dự kiến hoàn thành vào năm 2026. Trong tương lai, chính phủ Indonesia đang nhắm tới tuyến đường sắt xuyên Sulawesi để kết nối với Bắc Sulawesi và Gorontalo, điểm giữa sẽ được kết nối với Palu ở Trung Sulawesi và Đông Nam Sulawesi.
Tất cả những nội dung này đã được đưa vào quy hoạch tổng thể đường sắt của Indonesia. Chính phủ sẽ tài trợ cho cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng hiện tại thông qua ngân sách nhà nước (APBN).
Logistics gặp khó khăn, dự báo giá cước vận tải biển sẽ tiếp tục gia tăng
Do nhu cầu vận chuyển hàng hóa tăng cao và vấn đề tắc nghẽn trong ngành logistics chưa được giải quyết, giá cước vận tải container dự kiến sẽ tiếp tục tăng đến cuối năm nay, đặc biệt là trên các tuyến từ châu Á đến các cảng lớn như Rotterdam, New York và Los Angeles. Theo các chuyên gia, tình hình năm nay khác biệt so với năm trước do những căng thẳng địa chính trị và xung đột thương mại giữa các nước lớn, như Mỹ – Trung Quốc và EU – Trung Quốc, đã tạo ra sự bất ổn trong chuỗi cung ứng. Điều này đang thúc đẩy các nhà nhập khẩu đẩy mạnh nhập hàng trước, dẫn đến tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng tại các cảng biển và gia tăng đáng kể thời gian chờ đợi cho các tàu container.
Ngoài ra, việc các hãng tàu vẫn chưa đủ tàu để đáp ứng nhu cầu cũng là nguyên nhân chính khiến giá cước vận tải biển không có dấu hiệu giảm trong ngắn hạn. Các chuyên gia từ SSI cho biết rằng, dù có những đầu tư vào đóng mới tàu sau đại dịch, tốc độ bổ sung vẫn chậm và dự kiến có thể cần đến cuối năm nay mới có thể giải quyết được tình trạng tắc nghẽn hiện tại.
Tuy vậy, trong dài hạn, các biến số như căng thẳng thương mại toàn cầu và các rủi ro địa chính trị có thể gây khó khăn lớn cho chuỗi cung ứng và hệ thống logistics toàn cầu. Do đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần cẩn trọng và có kế hoạch ứng phó phù hợp để đối phó với tình hình biến động hiện nay và tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới để đảm bảo hoạt động kinh doanh bền vững.
Hai hãng tàu MSC và CMA CGM cùng nhau triển khai tuyến dịch vụ con thoi nội Á khi giá cước dịch vụ tăng cao
Liên minh hai hãng tàu MSC và CMA CGM đang đưa ra các chiến lược mới để phục vụ khách hàng ở khu vực tiểu lục địa Ấn Độ, tập trung các loại hàng hoá cao cấp vận chuyển bằng tàu trọng tải lớn bằng việc khai thác tuyến dịch vụ con thoi.
Hãng tàu MSC đã triển khai nhiều tuyến dịch vụ cho các tuyến thương mại châu Á, tuy nhiên các tuyến vận tải đường dài đang ngày càng trở nên khan hiếm vì tắc nghẽn ngày càng tăng tại các cảng Trung Cận Đông. Trong số các tuyến dịch vụ khu vực mới có tuyến Đông Nam Ấn Độ-Trung Quốc, Osprey, gồm các cảng Thượng Hải, Ninh Ba, Singapore, Colombo, Ennore, Visakhapatnam và Thượng Hải.
Hãng tàu có trụ sở tại Geneva cho biết Osprey sẽ “cải thiện thời gian vận chuyển và mở ra những cơ hội mới cho các nhà xuất nhập khẩu trong khu vực, giúp tăng cường kết nối giữa các trung tâm thương mại quan trọng này”.
Theo kế hoạch tuyến dịch vụ khởi hành từ Thượng Hải vào ngày 23 tháng 7, hãng tàu khẳng định tuyến này cung cấp các chuyến quá cảnh cạnh tranh từ cảng Ninh Ba cho các nhà nhập khẩu Ấn Độ: 15 ngày đến Ennore; 17 ngày tới Visakhapatnam; và 19 ngày tới Kolkata, quá cảnh qua Visakhapatnam.
Động thái này diễn ra khi giá cước vận tải giao ngay trên tuyến thương mại nội Á tới Ấn Độ đã tăng vọt, khiến các nhà nhập khẩu bày tỏ sự thất vọng về tình trạng luân chuyển hàng hóa và lịch trình giao hàng không thể đoán trước được.
Hãng tàu MSC cũng tăng cường khai thác tuyến dịch vụ Bengal ra khỏi Bangladesh để mở rộng thương mại nội Á, hiện đi qua các cảng Thanh Đảo, Ninh Ba, Thượng Hải, Chattogram (Chittagong), Singapore, Tanjung Pelepas và Thanh Đảo. “Tuyến Bengal được nâng cấp sẽ có thời gian vận chuyển là 10 ngày từ Thượng Hải đến Chattogram,” đại diện hãng tàu cho hay. Nỗ lực kết nối khu vực của Hãng tàu MSC cũng đang hướng tới các thị trường châu Á khác trong đó có tuyến miền Trung Trung Quốc-Việt Nam, có tên Saola, và tuyến Nhật Bản-Hàn Quốc có tên Kaguya.
Trong khi đó, hãng tàu CMA CGM của Pháp chuẩn bị bắt đầu dịch vụ đưa đón kết nối Singapore, Chennai và Colombo, với chuyến đi đầu tiên của IEX2 được lên kế hoạch vào ngày mai, từ Singapore. Các động thái này là dấu hiệu cho thấy các hãng tàu đang ngày càng coi hành lang bờ biển phía đông của Ấn Độ, trong và xung quanh Chennai, là một thị trường sinh lợi tiềm năng trong việc phát triển nền công nghiệp hàng hoá “Sản xuất tại Ấn Độ”
Các nhà sản xuất Ấn Độ hiện nay vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu thô từ Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc – chuỗi cung ứng quan trọng đã bị ảnh hưởng nặng nề trong những tuần gần đây do vấn đề về năng lực vận tải biển và tình trạng tắc nghẽn cảng lan rộng, trong đó Singapore là điểm chịu thiệt hại lớn nhất.
Ông Sunil Vaswani, Giám đốc điều hành của Hiệp hội các hãng tàu container cho biết: “Chỗ trên tàu thực sự là một vấn đề. Tuy nhiên, các hãng tàu đang cố gắng hết sức để nhận đặt chỗ ngay từ đầu, mặc dù việc đổi tuyến đường trong một hoặc hai tuần là hoàn toàn có thể xảy ra.” Một số hãng tàu hiện đã sử dụng các chuyến tàu đặc biệt để tăng thêm sức tải cho các booking container.
HOẠT ĐỘNG KẾT NỐI
VALOMA làm việc với Trường Đại học Tư thục Quốc tế Sài Gòn
Ngày 20/7 tại TP. Hồ Chí Minh, Đoàn công tác của Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) đã làm việc với Trường Đại học Tư thục Quốc tế Sài Gòn về công tác đào tạo nhân lực lĩnh vực logistics và chuỗi cung ứng.
Tham dự buổi làm việc, đại diện Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) có ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Chủ tịch danh dự VALOMA; PGS.TS. Hồ Thị Thu Hòa – Phó Chủ tịch VALOMA, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI); PGS. TS. Hà Thị Ngọc Oanh – Trưởng ban Kiểm tra VALOMA; đại diện các Ban nghiệp vụ của Hiệp hội VALOMA và đại diện một số doanh nghiệp, cơ sở đào tạo là thành viên Hiệp hội VALOMA.
Phát biểu tại buổi làm việc, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Chủ tịch danh dự VALOMA nhấn mạnh: “Việc tăng cường kết nối các đơn vị, doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo sẽ hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đào tạo nhân lực logistics và quản lý chuỗi cung ứng phù hợp với thực tiễn phát triển, góp phần xây dựng hệ sinh thái phát triển bền vững lĩnh vực logistics tại Việt Nam“.
Đại diện Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam, PGS. TS. Hà Thị Ngọc Oanh đã giới thiệu về Hiệp hội VALOMA và các hoạt động của Hiệp hội. “Mặc dù mới được thành lập hơn 3 năm nhưng Hiệp hội VALOMA đã xây dựng được mạng lưới hơn 419 hội viên – so với thời điểm mới thành lập thì con số này đã tăng hơn gấp 4 lần. VALOMA luôn chú trọng kết nối mạng lưới hội viên với các cơ sở đào tạo về logistics cũng như với các doanh nghiệp“, PGS. TS. Hà Thị Ngọc Oanh chia sẻ.
Hồ Thiện Thông Minh – Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, Trường Đại học Tư thục Quốc tế Sài Gòn cho biết, Trường đã trở thành hội viên của Hiệp hội VALOMA. Đây là một cơ hội để Trường Đại học Tư thục Quốc tế Sài Gòn nói chung, cũng như ngành/chuyên ngành đào tạo của Trường về Logistics & Quản lý Chuỗi cung ứng, Quản trị Kinh doanh, Thương mại Điện tử có thêm định hướng phát triển đào tạo ngành Logistics trong thời gian tới. Đồng thời, Trường sẽ tích cực tham gia nhiều hoạt động và đóng góp cho sự phát triển của Hiệp hội.
Buổi làm việc giữa Hiệp hội VALOMA với Trường Đại học Tư thục Quốc tế Sài Gòn sẽ mở ra những cơ hội mới và thuận lợi cho sự tăng cường hợp tác, kết nối xây dựng các chương trình kế hoạch đào tạo nhân lực logistics hiệu quả hơn trong thời gian tới.
VALOMA làm việc với Trường Cao đẳng Viễn Đông
Ngày 20/7 tại TP. Hồ Chí Minh, Đoàn công tác của Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) đã làm việc với Trường Cao đẳng Viễn Đông về công tác đào tạo nhân lực lĩnh vực logistics và chuỗi cung ứng.
Tham dự buổi làm việc, đại diện Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) có ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Chủ tịch danh dự VALOMA; PGS.TS. Hồ Thị Thu Hòa – Phó Chủ tịch VALOMA, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI); PGS. TS. Hà Thị Ngọc Oanh – Trưởng ban Kiểm tra VALOMA; đại diện các Ban nghiệp vụ của Hiệp hội VALOMA và đại diện một số doanh nghiệp, cơ sở đào tạo là thành viên Hiệp hội VALOMA.
Phát biểu tại buổi làm việc, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Chủ tịch danh dự VALOMA cho biết: Lĩnh vực Logistics và quản lý chuỗi cung ứng chính thức được Chính phủ giao Bộ Công Thương thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước từ năm 2022 tại Nghị định số 96 ngày 22/11/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương.
PGS.TS Hồ Thị Thu Hòa – Phó Chủ tịch VALOMA cũng chia sẻ: Hiệp hội phát triển nhân lực logistics Việt Nam (VALOMA) sẽ là cầu nối nối kết đội ngũ chuyên gia logistics trong nước và quốc tế tham gia góp ý chương trình đào tạo, giảng huấn chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm và định hướng nghề nghiệp cho sinh viên. Đồng thời nối kết các doanh nghiệp thành viên Hiệp hội trong tiếp nhận sinh viên kiến tập, thực tập, tuyển dụng sinh viên ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng, đảm bảo sinh viên của Trường Cao đẳng Viễn Đông được trải nghiệm môi trường làm việc chuyên môn tại doanh nghiệp và ưu thế làm việc ngay sau tốt nghiệp. Hiệp hội cũng hy vọng trong thời gian tới sẽ kết nạp được nhiều thành viên mới cùng tham gia các hoạt động của VALOMA.
Về phía nhà trường, ThS. Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Viễn Đông cho biết, hướng đi của nhà trường tập trung đẩy mạnh công tác đào tạo ngành Logistics theo hướng modun của từng vị trí việc làm, thông thạo và nắm chắc từng nghiệp vụ của ngành để tham gia thị trường lao động của ngành 1 cách phù hợp hơn. “Nhà trường sẵn sàng trở thành thành viên của Hiệp hội” và trong thời gian tới sẽ tiến hành thực hiện các thủ tục để tham gia thành viên của VALOMA. Đặc biệt, đây là cơ hội cho Lãnh đạo nhà trường tiếp tục làm công tác đào tạo tiếp cận với những vấn đề nóng hiện nay của ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng, để có được những kiến thức và cái nhìn, cách làm rõ hơn về lĩnh vực này trong xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, thông qua việc tham gia các hoạt động của Hiệp hội VALOMA cũng có thể mang lại cho các bạn sinh viên sau khi học ngành này nhiều cơ hội để tham gia thị trường nhân lực logistics…
Buổi làm việc giữa Hiệp hội VALOMA với Trường Cao đẳng Viễn Đông sẽ mở ra những cơ hội mới và thuận lợi cho sự tăng cường hợp tác, kết nối nhằm hỗ trợ nhau trong hoạt động đào tạo logistics và chuỗi cung ứng tạo nên hệ sinh thái phát triển bền vững phát triển và đào tạo nguồn nhân lực logistics Việt Nam đúng với sứ mệnh và mục tiêu VALOMA.
HỘI VIÊN MỚI
VALOMA trao Giấy chứng nhận Hội viên cho trường FPT Polytechnic
Sáng ngày 16/07 vừa qua, VALOMA đã trao Giấy chứng nhận Hội viên cho Trường FPT Polytechnic trong Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với 12 doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực Logistics được tổ chức tại trường. Đại diện Trường Cao đẳng FPT Polytechnic – thầy Vũ Chí Thành – Hiệu trưởng nhà trường cùng các đại diện đến từ 12 doanh nghiệp đặt bút ký cam kết hợp tác chặt chẽ, cùng nhau nâng tầm đào tạo, mở rộng cơ hội học tập/việc làm cho sinh viên FPT Polytechnic ngành Logistics.
Việc trao Giấy chứng nhận Hội viện cho Trường FPT Polytechnic đã thể hiện rõ hơn sự quan tâm đến việc giảng dạy, đào tạo và phát triển nhân lực ngành logistics tại Việt Nam của VALOMA. Bên cạnh đó thể hiện tinh thần muốn hợp tác, hỗ trợ giữa VALOMA và các trường hội viên tạo cơ hội cho sinh viên trang bị kiến thức, kỹ năng và bản lĩnh cần thiết để thành công trong tương lai, góp phần vào sự phát triển chung của ngành Logistics Việt Nam.